Một trong những món ăn bình dân mà cần thiết trong bửa cơm của ta, nhất là khi chưa có thói quen uống bia, uống rượu là món canh. Ở Huế có món canh rau thập toàn, các vùng khác ít nghe nói đến. Món canh nầy đúng tên thập toàn, nói trạnh ra tập tàng, tương đương với thang thuốc thập toàn đại bổ đã từng thấy trong sử sách. Trên nguyên tắc, món canh nầy gồm có 10 loại rau : cải cúc, dâu tằm, khoai lang, lá lốt, lá sưng, mồng tơi, rau má, rau ngót, rau sam, vông nem. Thật ra không khi nào cũng sẵn có tất cả các rau nầy và bà mẹ Huế tháo vát chế biến với những cây mình có. Với lại không nhất thiết phải có đủ 10 rau ấy canh mới ngon. Trong cuốn Nghệ thuật nấu món ăn Huế, cô Hoàng Thị Kim Cúc, với lời văn địa phương biết bao thú vị, chỉ nói đến lá sâng, lá lốt, lá bát lát, lá mồng tơi, thêm vào mướp ngọt gọt vỏ, măng non xắt lát mỏng (luộc trước cho khỏi đắng) và chỉ cách làm rất giản dị : "Tôm lột vỏ tao với ớt, hành, tiêu, nước mắm, muối cho vừa, bỏ măng xào trước, đoạn thêm một muỗng nước ruốc, để sôi vài lần thấm thêm nước cho nhiều, nấu sôi bỏ các thứ rau vào, bao giờ rau chín sẽ cho mướp ngọt vào trộn đều nhắc xuống liền " (i). Dễ dàng quá và cam đoan rất ngon miệng.
Mát dịu, giải nhiệt vào lúc hè nóng, nó lại là một môn thuốc bổ dưỡng, tăng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật. Một món ăn ngon lành và bổ ích như thế không thể để các nhà khảo cứu dửng dưng. Tuy nhiên, tài liệu về những cây rau trong món canh rau thập toàn vô cùng phong phú, khó lòng kể hết được. Trong phạm vi bài viết nầy, lắm khi chỉ xin giới hạn vài ba công tác khảo cứu trong lãnh vực tác dụng và phải bỏ qua đoạn thành phần, cấu tạo cùng các hoạt chất.
Cải cúc
Cải cúc hay rau cúc, còn gọi cúc tần ô, đồng hao, thường được trồng để lấy rau ăn. Mang tên khoa học Chrysanthemum coronarium L., nó thuộc họ Cúc Compositae. Anh, Mỹ thường dùng danh từ garland để chỉ cải cúc ; Pháp có tên chrysanthème (des jardins, à couronne) nhưng thường được hiểu là hoa cúc.
Cũng như tỏi, su, mồng tơi, cải cúc chứa Fe và các ascorbic, oxalic acid, oxalat còn folat thì nhiều hơn cả ở hành, tỏi, tiêu, cà rốt, dưa chuột. Đặc biệt vitamin C tích trữ nhiều trong rau già. Rễ cây shungiku (cải cúc bên Nhật) trao đổi cation, hấp thu Ca nhiều hơn tỏi, mì, cà chua, dưa chuột. Nhiều hóa chất hữu cơ như hyratol ester đã được xác định, những spiroacetal cùng các chất nhiều vòng như guaianolid, zuurbergenin đuợc chiết xuất. Hoa cải cúc chứa glucosid của quercetin, quercetagetin, luteolin, kaempferol cùng các chlorogenic, isochlorogenic acid, những sesquiterpen lacton như cumambrin, hydrocumambrin. Đặc biệt, phần chiết từ cải cúc chứa rutin, gingerol, hexahydrocurcumin, các dicaffeoyl quinic, dicaffeoyl succinyl quinic acid là những chất phản oxi hóa, có khả năng ức chế những gốc tự do thường phá hủy cơ thể làm ta chóng già.
Trong kỹ nghệ, nhiều văn bằng sáng chế đã dùng cây ngâm nước rồi cho điện phân làm thuốc tẩy mùi tanh cá (1), lấy phần chiết hòa với dầu cây bạch đàn làm thuốc đuổi muỗi (3), chiết xuất anthocyanin dùng trong thực phẩm và mỹ nghệ (2). Bên ta, cải cúc có tác dụng thanh nhiệt, đã được dùng để chữa ho cảm, mờ mắt, thổ huyết, chậm tiêu, nhức đầu thần kinh, uống dưới dạng thuốc pha hay thuốc sắc (b,h).
Dâu tằm
Có khi chỉ gọi ngắn cây dâu, dâu tằm mang tên khoa học Morus alba Linn. hay M. australis Poir. tức là M. acidosa Griff, thuộc họ Dâu tằm Moracea, cung cấp nhiều vị thuốc : lá dâu (tang diệp), cành dâu (tang chi), trái dâu (tang thầm), vỏ rễ dâu (tang bạch bì), tầm gửi trên cây dâu (tang ký sinh), tổ bọ ngựa trên cây dâu (tang phiêu tiêu), sâu nằm trong thân cây dâu (ấu trùng một loại xén tóc gọi là tang đố). Bài nầy chỉ giới thiệu trong phạm vi tang diệp. Âu Mỹ thường gọi cây dâu mulberry, murier.
Ngoài protein, amin acid, khoáng chất kim loại như Ca, Na, K, P, Fe, Mg, những hóa chất hữu cơ như keton, aldehyd, amin acid, đường, flavanol, polysaccharid,… lá dâu đặc biệt chứa các vitamin B, C đồng thời với caroten, các hormon lột xác sâu bọ như ecysteron, inokosteron, các enzym như superoxid dismutase kèm theo 4 coenzym. Chính nhờ ở caroten và tocopherol mà phần chiết dâu với methanol có tính chất phản oxi hóa. Từ lâu, người ta đã biết lá dâu có khả năng chống bệnh đái đường. Cũng nhờ ở các chất đường chứa N như deoxyojirimycin, methyl galacto pyranosyl fagomin, dideoxy imino arabinitol, calystegin B2 mà phần chiết với nước có hiệu lực lên sự phát tiết nước miếng và có tác dụng chống tăng đường ở chuột đã bị streptozocin gây bệnh đái đường.
Đằng khác, phần chiết từ lá có hoạt động estrogenic lớn hơn xoài, mít,… Chất kuwanon-I chiết xuất từ lá với ethyl acetat là một thuốc kháng sinh có tác dụng lên nhiều vi khuẩn, đặc biệt lên Staphylococcus aureus (4). Còn chất kuwanon-H cũng như morusin hay morusin-O-glucose thì lại có khả năng kháng :VIH1 in vitro (5). Nhờ những hoạt chất như arginin, lysin, histidin, lá dâu là một nguồn thuốc diệt khuẩn (6). Kỹ nghệ đã có dùng phần chiết trộn với nhân sâm, vitamin E, superoxid dismutase,… làm thuốc chống già, hay làm kem bảo vệ da chứa amin acid, acid béo không bảo hòa, lipid phi cực như glycerid, squalen, cholesterol và các ester,… Ở nước ta, lá dâu thường được sắc uống để chữa sốt, cảm mạo, trừ đờm, cao huyết áp, nôn ra máu, làm sáng mắt, hay sao vàng tán nhỏ rắc vào mụn nhọt lâu ngày không liền miệng (b), chữa ho hen, mất ngủ (d, đ).
Khoai lang
Khoai lang là một loại rau vô cùng quen thuộc ở nước ta vì giàu nghèo ai cũng có ăn, lắm khi còn thích thú gặp khoai ngon, bở. Còn gọi phan chư, cam thự, hồng thự, cam chư, khoai lang mang tên khoa học Ipomoea batatas (L.) Poir., thuộc họ Bìm bìm Convulaceae. Âu Mỹ thường gọi nó sweet potato, patate douce.
Đã lâu, người ta đã biết dùng nước hay methanol chiết xuất các chất kháng sinh có hoạt động kích thích chống những vi khuẩn gram âm và gram dương, biến khoai lang thành nguồn thuốc quý báu diệt trùng, diệt nấm. Nhiều loại khoai (I. batatas, I. alba, I. muricata, I. fictulosa) đã đuợc đem thử chống vi khuẩn gram dương Straphylococcus aureus ATCC 25923 và tuy tác dụng khác nhau, chúng đều có tính chất diệt trùng (7). Một phần chiết với methanol 70% cho một hoạt động phản oxi hóa nhờ sự đồng vận của các phenol (những chlorogenic, isochlorogenic, caffeic, caffeoyl quinic acid) với các amin acid. Dùng một hỗn hợp nước-methanol-chloroform chiết xuất thì được những glycolipid có khả năng ức chế cuộc tăng sinh những tế bào ung thư. Dùng nước cũng lấy ra được từ lá một phần chiết có tính chất chống đột biến. Một văn bằng sáng chế Nhật đề nghị dùng những chất sitosterol, ferulic acid và các ester của nó, triterpenoid, octacosanol,…trong khoai lang để làm một thuốc bổ điều hòa huyết áp, đề phòng viêm khớp (8).
Khoai lang cống hiến những chất nhuộm thiên nhiên đồ ăn, chủ yếu là các caroten từ giống Yamkawa murasaki bên Nhật, chiết xuất với hexan, hay anthocyanin chiếc xuất với nước. Khoai lang cũng đã được cho lên men cùng sữa với vi khuẩn da ua làm thành một thức ăn giàu vitamin A và C (19). Một ứng dụng khác của khoai lang là đem thân và lá ủ kỵ khí ở 37°C để sản xuất methan. Còn củ khoai lang lần lượt xử lý với NaOH và HCl, rồi cho tác dụng với những enzym loại glucoamylase, amylase, pectinase hay cellulase thì chế tạo ra ethanol. Cứ 400g khoai tươi thu được 41,6g rượu. Người ta cũng đã kết hợp hai việc sản xuất methan và rượu, còn cặn bã lên men thì dùng làm phân bón trồng khoai lang. Ở nước ta, lá khoai lang sắc uống thành thuốc nhuận tràng khỏi táo bón (b), bổ tì vị, giúp đi đại tiện dễ dàng (c).
Mát dịu, giải nhiệt vào lúc hè nóng, nó lại là một môn thuốc bổ dưỡng, tăng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật. Một món ăn ngon lành và bổ ích như thế không thể để các nhà khảo cứu dửng dưng. Tuy nhiên, tài liệu về những cây rau trong món canh rau thập toàn vô cùng phong phú, khó lòng kể hết được. Trong phạm vi bài viết nầy, lắm khi chỉ xin giới hạn vài ba công tác khảo cứu trong lãnh vực tác dụng và phải bỏ qua đoạn thành phần, cấu tạo cùng các hoạt chất.
Cải cúc
Cải cúc hay rau cúc, còn gọi cúc tần ô, đồng hao, thường được trồng để lấy rau ăn. Mang tên khoa học Chrysanthemum coronarium L., nó thuộc họ Cúc Compositae. Anh, Mỹ thường dùng danh từ garland để chỉ cải cúc ; Pháp có tên chrysanthème (des jardins, à couronne) nhưng thường được hiểu là hoa cúc.
Cũng như tỏi, su, mồng tơi, cải cúc chứa Fe và các ascorbic, oxalic acid, oxalat còn folat thì nhiều hơn cả ở hành, tỏi, tiêu, cà rốt, dưa chuột. Đặc biệt vitamin C tích trữ nhiều trong rau già. Rễ cây shungiku (cải cúc bên Nhật) trao đổi cation, hấp thu Ca nhiều hơn tỏi, mì, cà chua, dưa chuột. Nhiều hóa chất hữu cơ như hyratol ester đã được xác định, những spiroacetal cùng các chất nhiều vòng như guaianolid, zuurbergenin đuợc chiết xuất. Hoa cải cúc chứa glucosid của quercetin, quercetagetin, luteolin, kaempferol cùng các chlorogenic, isochlorogenic acid, những sesquiterpen lacton như cumambrin, hydrocumambrin. Đặc biệt, phần chiết từ cải cúc chứa rutin, gingerol, hexahydrocurcumin, các dicaffeoyl quinic, dicaffeoyl succinyl quinic acid là những chất phản oxi hóa, có khả năng ức chế những gốc tự do thường phá hủy cơ thể làm ta chóng già.
Trong kỹ nghệ, nhiều văn bằng sáng chế đã dùng cây ngâm nước rồi cho điện phân làm thuốc tẩy mùi tanh cá (1), lấy phần chiết hòa với dầu cây bạch đàn làm thuốc đuổi muỗi (3), chiết xuất anthocyanin dùng trong thực phẩm và mỹ nghệ (2). Bên ta, cải cúc có tác dụng thanh nhiệt, đã được dùng để chữa ho cảm, mờ mắt, thổ huyết, chậm tiêu, nhức đầu thần kinh, uống dưới dạng thuốc pha hay thuốc sắc (b,h).
Dâu tằm
Có khi chỉ gọi ngắn cây dâu, dâu tằm mang tên khoa học Morus alba Linn. hay M. australis Poir. tức là M. acidosa Griff, thuộc họ Dâu tằm Moracea, cung cấp nhiều vị thuốc : lá dâu (tang diệp), cành dâu (tang chi), trái dâu (tang thầm), vỏ rễ dâu (tang bạch bì), tầm gửi trên cây dâu (tang ký sinh), tổ bọ ngựa trên cây dâu (tang phiêu tiêu), sâu nằm trong thân cây dâu (ấu trùng một loại xén tóc gọi là tang đố). Bài nầy chỉ giới thiệu trong phạm vi tang diệp. Âu Mỹ thường gọi cây dâu mulberry, murier.
Ngoài protein, amin acid, khoáng chất kim loại như Ca, Na, K, P, Fe, Mg, những hóa chất hữu cơ như keton, aldehyd, amin acid, đường, flavanol, polysaccharid,… lá dâu đặc biệt chứa các vitamin B, C đồng thời với caroten, các hormon lột xác sâu bọ như ecysteron, inokosteron, các enzym như superoxid dismutase kèm theo 4 coenzym. Chính nhờ ở caroten và tocopherol mà phần chiết dâu với methanol có tính chất phản oxi hóa. Từ lâu, người ta đã biết lá dâu có khả năng chống bệnh đái đường. Cũng nhờ ở các chất đường chứa N như deoxyojirimycin, methyl galacto pyranosyl fagomin, dideoxy imino arabinitol, calystegin B2 mà phần chiết với nước có hiệu lực lên sự phát tiết nước miếng và có tác dụng chống tăng đường ở chuột đã bị streptozocin gây bệnh đái đường.
Đằng khác, phần chiết từ lá có hoạt động estrogenic lớn hơn xoài, mít,… Chất kuwanon-I chiết xuất từ lá với ethyl acetat là một thuốc kháng sinh có tác dụng lên nhiều vi khuẩn, đặc biệt lên Staphylococcus aureus (4). Còn chất kuwanon-H cũng như morusin hay morusin-O-glucose thì lại có khả năng kháng :VIH1 in vitro (5). Nhờ những hoạt chất như arginin, lysin, histidin, lá dâu là một nguồn thuốc diệt khuẩn (6). Kỹ nghệ đã có dùng phần chiết trộn với nhân sâm, vitamin E, superoxid dismutase,… làm thuốc chống già, hay làm kem bảo vệ da chứa amin acid, acid béo không bảo hòa, lipid phi cực như glycerid, squalen, cholesterol và các ester,… Ở nước ta, lá dâu thường được sắc uống để chữa sốt, cảm mạo, trừ đờm, cao huyết áp, nôn ra máu, làm sáng mắt, hay sao vàng tán nhỏ rắc vào mụn nhọt lâu ngày không liền miệng (b), chữa ho hen, mất ngủ (d, đ).
Khoai lang
Khoai lang là một loại rau vô cùng quen thuộc ở nước ta vì giàu nghèo ai cũng có ăn, lắm khi còn thích thú gặp khoai ngon, bở. Còn gọi phan chư, cam thự, hồng thự, cam chư, khoai lang mang tên khoa học Ipomoea batatas (L.) Poir., thuộc họ Bìm bìm Convulaceae. Âu Mỹ thường gọi nó sweet potato, patate douce.
Đã lâu, người ta đã biết dùng nước hay methanol chiết xuất các chất kháng sinh có hoạt động kích thích chống những vi khuẩn gram âm và gram dương, biến khoai lang thành nguồn thuốc quý báu diệt trùng, diệt nấm. Nhiều loại khoai (I. batatas, I. alba, I. muricata, I. fictulosa) đã đuợc đem thử chống vi khuẩn gram dương Straphylococcus aureus ATCC 25923 và tuy tác dụng khác nhau, chúng đều có tính chất diệt trùng (7). Một phần chiết với methanol 70% cho một hoạt động phản oxi hóa nhờ sự đồng vận của các phenol (những chlorogenic, isochlorogenic, caffeic, caffeoyl quinic acid) với các amin acid. Dùng một hỗn hợp nước-methanol-chloroform chiết xuất thì được những glycolipid có khả năng ức chế cuộc tăng sinh những tế bào ung thư. Dùng nước cũng lấy ra được từ lá một phần chiết có tính chất chống đột biến. Một văn bằng sáng chế Nhật đề nghị dùng những chất sitosterol, ferulic acid và các ester của nó, triterpenoid, octacosanol,…trong khoai lang để làm một thuốc bổ điều hòa huyết áp, đề phòng viêm khớp (8).
Khoai lang cống hiến những chất nhuộm thiên nhiên đồ ăn, chủ yếu là các caroten từ giống Yamkawa murasaki bên Nhật, chiết xuất với hexan, hay anthocyanin chiếc xuất với nước. Khoai lang cũng đã được cho lên men cùng sữa với vi khuẩn da ua làm thành một thức ăn giàu vitamin A và C (19). Một ứng dụng khác của khoai lang là đem thân và lá ủ kỵ khí ở 37°C để sản xuất methan. Còn củ khoai lang lần lượt xử lý với NaOH và HCl, rồi cho tác dụng với những enzym loại glucoamylase, amylase, pectinase hay cellulase thì chế tạo ra ethanol. Cứ 400g khoai tươi thu được 41,6g rượu. Người ta cũng đã kết hợp hai việc sản xuất methan và rượu, còn cặn bã lên men thì dùng làm phân bón trồng khoai lang. Ở nước ta, lá khoai lang sắc uống thành thuốc nhuận tràng khỏi táo bón (b), bổ tì vị, giúp đi đại tiện dễ dàng (c).
Lá lốt
Những sách thuốc Việt Nam thường cho tên khoa học của lá lốt là Piper lolot C.DC., thuộc họ Hồ tiêu Piperaceae. Còn gọi tất bát, có tên poivre lolot ở Pháp, bibo bên Trung Quốc, danh từ P. lolot không tìm thấy trong các sách thông tin khoa học loại Chemical Abstracts. Trong cuốn Cây cỏ miền nam Việt Nam có kê P. lolot nhưng không thấy tên tương đuơng Việt Nam ; trái lại, trước danh từ lốt thì có chua P. sarmentosum Roxb. ex Hunter, trong khi dây lốt thì được cho là P. saigonense, còn tiêu lốt là P. longum L. Theo sách Thực hành dược khoa thì lá lốt là P. longum.
Sau đây là tính chất dược liệu của P. longum và P. sarmentosum. Bên Ấn Độ, sách Ayurveda (Khoa học đời sống) từ lâu đã dẫn P. longum trong một hỗn hợp ngừa thai. Ngành mô hóa học đã chứng minh hoạt động alcalin phosphatase đặc biệt lên nội mạc tử cung thỏ, ngăn chận không cho trứng đã thụ tinh dính vào (10). Mặt khác, dầu P. longum có tác dụng lên giun sán, giảm hạ cholesterol ở chuột, gây phù lên chân chuột trong một cuộc khảo cứu tính chất chống viêm. Nhờ chất alcaloid piperin, P. longum gia tăng nồng độ các chất vasicin, spatein trong máu (11). Chất piperin đã được chiết xuất để dùng trong việc hấp thu đồ ăn vào hệ thống dạ dày-ruột (12).
Bên phần P. sarmentosum thì ngoài khoáng chất, protein, amin acid, đường, lipid, nó còn chứa một số hóa chất như hydro cinnamic acid, sitosterol ở lá hay ở trái, asaron, asaron aldehyd , pellitorin, sammentin, sarmentosin ở trái, đặc biệt ba phenyl propanoid có tính chất diệt trùng Escherichia coli và Bacillus subtilis : allyl methoxy-, allyl dimethoxy methylen dioxybenzen và allyl trimethoxy benzen. Ở nước ta, lá lốt xem có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có công năng ôn trung, tán hàn, hạ khí, chỉ thống (h). Người ta lấy nó làm gia vị hay làm thuốc chống viêm, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay chân, bệnh đi ngoài lỏng, dùng dưới dạng sắc uống hay cho ngâm chân tay (b).
Mồng tơi
Còn gọi lạc quỳ, đằng thái, mồng tơi là một loại dây leo mọc hoang, thường được trồng vào hàng rào để lấy rau ăn. Nó mang tên khoa học Basella rubra Linn., thuộc họ Mồng tơi Basellaceae. Trên thế giới, nó được gọi malabar spinach, malabar nightshade theo danh pháp Anh Mỹ, alugbati bên Phi Luật Tân hay pui sak ở Bangladesh.
Toàn cây chứa đựng protein với 13 amin acid, đặc biệt với các acid béo giàu oleic và linoleic acid ở hột cũng như ở lá. Ngoài polysaccharid, khoáng chất kim loại như Ca, Fe, Zn(3), lá cống hiến các vitamin A, C, những carotenoid mà các caroten là những chất tiền vitamin A. Một số hóa chất hữu cơ khác cũng được tìm ra trong lá : violaxanthin, lutein, tunaxanthin, phytoen, phytofluen, neoxanthin, cryptoxanthin, xanthoflavin, cùng một loạt acid : ketoglutaric, levulinic, pyruvic, oxalacetic, succinic, lactic, malonic, glycolic, oxalic, malic, citric, propionic, acetic, formic, pyroglutanmic acid. Trái cây đem ép tiết ra những betanidin glycosid, mang những tên gomphrenin hay isogomphrenin. Đặc biệt, mỗi sắc tố được lấy ra để nhuộm đỏ đồ ăn, thuốc men mỹ phẩm có tính chất ổn định (14) ngay ở độ nóng (13) . Một văn bằng sánh chế Pháp mô tả hoá chất methoxy methyl phenyl benzo pyranon cùng các dẫn xuất để dùng trong son môi, phấn xoa mặt, thuốc nhuộm tóc hay vec ni đánh móng tay (15). Hương vị mồng tơi là do các hóa chất methoxy propan, hexenol, methoxy phenyl acetat, acetophenon, vinyl guaiacol, phytol, isophytol, cùng các chất dễ bốc hơi ethyl acetat, benzen heptanon, hepten, ethyl benzen, xylen, limonen tạo thành.
Rau mồng tơi tuy nấu canh ăn mát, ít được dùng làm thuốc, mặc dầu sách cổ ghi rau có vị chua, tính hàn, tán nhiệt, hoạt trường. Những người mắc bệnh đái đường, dư thừa cholesterol-huyết hay bị chứng mập phì, nên ăn rau mồng tơi (h). Có nơi dùng nó chữa trẻ con táo bón, phụ nữ đẻ khó, trái ép nước chữa đau mắt, nơi khác giã đắp chữa vú sưng nứt, giải độc (b).
Rau má
Rau má là một cây thuốc thông thường ở nước ta, sách thuốc nào cũng có nói tới. Còn gọi tích tuyết thảo, liên tiền thảo, nó mang hai tên khoa học Centella asiatica (L.) Urb. hay Hydrocotyle asiatica (L.) Urb., thuộc họ Hoa tán Umbelliferae hay Apiaceae. Người Trung Quốc có tên sanjinpian, người Tích Lan gọi gotukola, người Bangladesh dùng danh từ thankuni pata (nên sau nầy có những tên thankunisid, thankuni acid).
Từ lâu, người ta biết rau má có tác dụng kháng khuẩn, đặc biệt chống Staphylococcus aureus. Những triterpenoid như asiaticosid, madecassosid, asiatic asid, madecassic acid là những hoạt chất có khả năng giảm hạ u hạt. Đặc biệt asiaticosid rất hiệu nghiệm trong việc phòng chữa phong hủi. Cùng với các glycosid khác như brahmosid, brahminosid, nó còn có tính chất chống co thắt, chống căng thẳng. Những triterpenoid còn có khả năng gây chồi trên các mạch trung phôi bì, từ đấy tăng cường sự kết sẹo, xúc tiến cuộc biểu mô hóa. Còn thankunisid, một triterpenglosid, là một tác nhân chống sinh sản rất công hiệu trên chuột cái. Với những saponin thì tác dụng giảm đau có thể so sánh với chlopromazin hay meprobamat, theo cơ chế phát tiết acetyl cholin trong thần kinh hệ. Hỗn hợp saponin-phospholipid có khả năng chống viêm, chống phù, cho nên đuợc đưa vào các công thức dược học (18). Nhờ những amin acid như glutamic, aspartic acid, rau má được dùng làm chất truyền chuyển thần kinh, ổn định hay kích thích những hoạt động của óc não. Nhiều văn bằng sáng chế đã lấy phần chiết từ rau má cho vào mỹ phẩm, ngăn ngừa tóc rụng, kích thích tóc mọc, chữa bệnh ngoài da như loét, chàm, eczema, ngứa lở hay phục hồi, tái sinh biểu bì (16,17).
Ở nước ta, nhờ tính chất giải nhiệt thông tiểu, rau má đã được dùng để chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa (b), chữa sốt, sởi, táo bón, vàng da, dắc buốt, thống kinh (d), chữa viêm gan, viêm màng ngực, viêm sinh mũ (g), chữa viêm họng, viêm hạch nhân, viêm khí quản (c). Những người bị bệnh đái đường, sũng phù hay đau dạ dày cũng nên uống nước rau má (h). Rau má, ngoài nước vắt, sắc uống, có thể ăn sống, hay phơi khô tán nhỏ thành bột dễ dùng. Cũng có thể đâm nhuyễn đắp lên mụt nhọt, vết thương bên ngoài.
Những sách thuốc Việt Nam thường cho tên khoa học của lá lốt là Piper lolot C.DC., thuộc họ Hồ tiêu Piperaceae. Còn gọi tất bát, có tên poivre lolot ở Pháp, bibo bên Trung Quốc, danh từ P. lolot không tìm thấy trong các sách thông tin khoa học loại Chemical Abstracts. Trong cuốn Cây cỏ miền nam Việt Nam có kê P. lolot nhưng không thấy tên tương đuơng Việt Nam ; trái lại, trước danh từ lốt thì có chua P. sarmentosum Roxb. ex Hunter, trong khi dây lốt thì được cho là P. saigonense, còn tiêu lốt là P. longum L. Theo sách Thực hành dược khoa thì lá lốt là P. longum.
Sau đây là tính chất dược liệu của P. longum và P. sarmentosum. Bên Ấn Độ, sách Ayurveda (Khoa học đời sống) từ lâu đã dẫn P. longum trong một hỗn hợp ngừa thai. Ngành mô hóa học đã chứng minh hoạt động alcalin phosphatase đặc biệt lên nội mạc tử cung thỏ, ngăn chận không cho trứng đã thụ tinh dính vào (10). Mặt khác, dầu P. longum có tác dụng lên giun sán, giảm hạ cholesterol ở chuột, gây phù lên chân chuột trong một cuộc khảo cứu tính chất chống viêm. Nhờ chất alcaloid piperin, P. longum gia tăng nồng độ các chất vasicin, spatein trong máu (11). Chất piperin đã được chiết xuất để dùng trong việc hấp thu đồ ăn vào hệ thống dạ dày-ruột (12).
Bên phần P. sarmentosum thì ngoài khoáng chất, protein, amin acid, đường, lipid, nó còn chứa một số hóa chất như hydro cinnamic acid, sitosterol ở lá hay ở trái, asaron, asaron aldehyd , pellitorin, sammentin, sarmentosin ở trái, đặc biệt ba phenyl propanoid có tính chất diệt trùng Escherichia coli và Bacillus subtilis : allyl methoxy-, allyl dimethoxy methylen dioxybenzen và allyl trimethoxy benzen. Ở nước ta, lá lốt xem có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có công năng ôn trung, tán hàn, hạ khí, chỉ thống (h). Người ta lấy nó làm gia vị hay làm thuốc chống viêm, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay chân, bệnh đi ngoài lỏng, dùng dưới dạng sắc uống hay cho ngâm chân tay (b).
Mồng tơi
Còn gọi lạc quỳ, đằng thái, mồng tơi là một loại dây leo mọc hoang, thường được trồng vào hàng rào để lấy rau ăn. Nó mang tên khoa học Basella rubra Linn., thuộc họ Mồng tơi Basellaceae. Trên thế giới, nó được gọi malabar spinach, malabar nightshade theo danh pháp Anh Mỹ, alugbati bên Phi Luật Tân hay pui sak ở Bangladesh.
Toàn cây chứa đựng protein với 13 amin acid, đặc biệt với các acid béo giàu oleic và linoleic acid ở hột cũng như ở lá. Ngoài polysaccharid, khoáng chất kim loại như Ca, Fe, Zn(3), lá cống hiến các vitamin A, C, những carotenoid mà các caroten là những chất tiền vitamin A. Một số hóa chất hữu cơ khác cũng được tìm ra trong lá : violaxanthin, lutein, tunaxanthin, phytoen, phytofluen, neoxanthin, cryptoxanthin, xanthoflavin, cùng một loạt acid : ketoglutaric, levulinic, pyruvic, oxalacetic, succinic, lactic, malonic, glycolic, oxalic, malic, citric, propionic, acetic, formic, pyroglutanmic acid. Trái cây đem ép tiết ra những betanidin glycosid, mang những tên gomphrenin hay isogomphrenin. Đặc biệt, mỗi sắc tố được lấy ra để nhuộm đỏ đồ ăn, thuốc men mỹ phẩm có tính chất ổn định (14) ngay ở độ nóng (13) . Một văn bằng sánh chế Pháp mô tả hoá chất methoxy methyl phenyl benzo pyranon cùng các dẫn xuất để dùng trong son môi, phấn xoa mặt, thuốc nhuộm tóc hay vec ni đánh móng tay (15). Hương vị mồng tơi là do các hóa chất methoxy propan, hexenol, methoxy phenyl acetat, acetophenon, vinyl guaiacol, phytol, isophytol, cùng các chất dễ bốc hơi ethyl acetat, benzen heptanon, hepten, ethyl benzen, xylen, limonen tạo thành.
Rau mồng tơi tuy nấu canh ăn mát, ít được dùng làm thuốc, mặc dầu sách cổ ghi rau có vị chua, tính hàn, tán nhiệt, hoạt trường. Những người mắc bệnh đái đường, dư thừa cholesterol-huyết hay bị chứng mập phì, nên ăn rau mồng tơi (h). Có nơi dùng nó chữa trẻ con táo bón, phụ nữ đẻ khó, trái ép nước chữa đau mắt, nơi khác giã đắp chữa vú sưng nứt, giải độc (b).
Rau má
Rau má là một cây thuốc thông thường ở nước ta, sách thuốc nào cũng có nói tới. Còn gọi tích tuyết thảo, liên tiền thảo, nó mang hai tên khoa học Centella asiatica (L.) Urb. hay Hydrocotyle asiatica (L.) Urb., thuộc họ Hoa tán Umbelliferae hay Apiaceae. Người Trung Quốc có tên sanjinpian, người Tích Lan gọi gotukola, người Bangladesh dùng danh từ thankuni pata (nên sau nầy có những tên thankunisid, thankuni acid).
Từ lâu, người ta biết rau má có tác dụng kháng khuẩn, đặc biệt chống Staphylococcus aureus. Những triterpenoid như asiaticosid, madecassosid, asiatic asid, madecassic acid là những hoạt chất có khả năng giảm hạ u hạt. Đặc biệt asiaticosid rất hiệu nghiệm trong việc phòng chữa phong hủi. Cùng với các glycosid khác như brahmosid, brahminosid, nó còn có tính chất chống co thắt, chống căng thẳng. Những triterpenoid còn có khả năng gây chồi trên các mạch trung phôi bì, từ đấy tăng cường sự kết sẹo, xúc tiến cuộc biểu mô hóa. Còn thankunisid, một triterpenglosid, là một tác nhân chống sinh sản rất công hiệu trên chuột cái. Với những saponin thì tác dụng giảm đau có thể so sánh với chlopromazin hay meprobamat, theo cơ chế phát tiết acetyl cholin trong thần kinh hệ. Hỗn hợp saponin-phospholipid có khả năng chống viêm, chống phù, cho nên đuợc đưa vào các công thức dược học (18). Nhờ những amin acid như glutamic, aspartic acid, rau má được dùng làm chất truyền chuyển thần kinh, ổn định hay kích thích những hoạt động của óc não. Nhiều văn bằng sáng chế đã lấy phần chiết từ rau má cho vào mỹ phẩm, ngăn ngừa tóc rụng, kích thích tóc mọc, chữa bệnh ngoài da như loét, chàm, eczema, ngứa lở hay phục hồi, tái sinh biểu bì (16,17).
Ở nước ta, nhờ tính chất giải nhiệt thông tiểu, rau má đã được dùng để chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa (b), chữa sốt, sởi, táo bón, vàng da, dắc buốt, thống kinh (d), chữa viêm gan, viêm màng ngực, viêm sinh mũ (g), chữa viêm họng, viêm hạch nhân, viêm khí quản (c). Những người bị bệnh đái đường, sũng phù hay đau dạ dày cũng nên uống nước rau má (h). Rau má, ngoài nước vắt, sắc uống, có thể ăn sống, hay phơi khô tán nhỏ thành bột dễ dùng. Cũng có thể đâm nhuyễn đắp lên mụt nhọt, vết thương bên ngoài.
Rau ngót
Tên khoa học của rau ngót là Sauropus androgynus (L.) Merr., thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae. Có sách cho tên Phyllanthus elegans Wall., thuộc cùng họ. Còn được gọi chùm ngọt, bò ngót hay bù ngót, nó thường mọc hoang, có nơi được trồng để hái lá tươi nấu canh.
Lá cây chứa một số khoáng chất kim loại : P, Ca, Mn, Na, Fe, Cu(4), carbohydrat, protein, thiamin, riboflavin, lipid, glycolipid mà nhiều nhất là linolenic acid. Trong lá tươi, nhiều sterol đã được xác định như cholesterol, campesterol, sitostetrol, isofucosterol. Với lá phơi khô, nghiền bột thì qua sắc ký trên giấy, một số amin acid đã được phát giác : arginin, aspartic acid, cystein, glutamic acid, glycin, histidin-glycin-HCl, isoleucin-leucin, methionin, phenyl alanin, serin, threonin, tyrosin, valin (20) . Người ta cũng đã tìm ra được trong lá rau ngót caroten, ascorbic acid (21), tocopherol (19), nghĩa là có đủ các vitamin A, C, E. Các nhà khảo cứu Ấn Độ nhận ra trong lá cây chekkurmenis (là rau ngót bên nước họ) những chất dinh dưỡng tăng với tuổi cây và có nhiều ở các lá phía bên hơn là các lá mọc cuối cành (21).
Tác dụng dược lý của rau ngót chưa được khảo cứu nhiều. Ở nước ta, ngoài canh rau, lá ngót thường được dùng để chữa sót nhau, hóc xương, tưa lưỡi (b), chữa ban sởi, viêm phổi, bí tiểu tiện ; rễ dùng để lợi tiểu, thông huyết (d). Thường lá hay rễ tươi, giã nát, ép vắt lấy nước ngâm, uống. Còn không thì canh rau ngót cũng có tính bổ dưỡng, mát, lành nên dùng cho người bệnh mới khỏi, đàn bà mới sanh (h).
Rau sam
Còn gọi mã xĩ hiện (machixian của Trung Quốc), tức là có hình răng ngựa, rau sam mang tên khoa học Portulaca oleraceae Linn., thuộc họ Rau sam Portulacaceae. Sách Âu Mỹ mô tả nó qua tên purslane, poupier. Cây được trồng làm rau ở Âu châu, mọc hoang ở nước ta, quanh nơi ẩm uớt.
Chứa các vitamin A, C, những chất phản oxi hóa, rau sam được xem như một nguồn acid béo omega-3, tức là những chất làm giảm hạ cholesterol cũng như để chữa xơ cứng động mạch. Cho gà ăn rau sam thì trứng đẻ ra cũng chứa nhiều loại acid ấy. Một số phenol như scoletin, bergapten, isopimpinellin, lonchocarpic acid, lonchocarpenin, robustin, genistein, genistin đã được chiết xuất và đem thử về mặt sát trùng, chống viêm. Nhờ có những tính chất ấy mà người ta dùng rau sam cũng như hành, tiêu, tỏi,… để bảo quản đồ ăn ướp muối, chống nấm trên các loại cải, bảo vệ da người, chữa chứng hôi miệng, phòng ngừa bệnh nấm và ỉa chảy ở gia súc, gia cầm.
Ngoài ra, phần chiết từ rau sam có khả năng kích thích sự phát triển insulin ở tuyến tụy, cải tạo glycogen. Đem thử trên thú vật, nhờ những chất alcaloid, coumarin, flavon, cardiac và anthroquinon glycosid, dù không có ảnh hưởng lớn lên mức đường ở máu, phần chiết nầy đã kéo dài được đời sống của chuột và thỏ bị bệnh đái đường, vì đã điều hòa được sự hỗn độn trong cuộc chuyển hóa lipid (22). Từ rau sam, người ta đã chế ra được một loại thuốc uống ức chế kết tụ tiểu cầu, giảm lipid máu (23), hạ huyết đường, tăng insulin ở chuột (24). Đặc biệt, phần thấm tách lại có khả năng gây kích thích thần kinh cơ hoành, co thắt trực tràng ở chuột, dãn duỗi bắp thịt ở gà. Bên ta, rau sam có thể ăn sống hoặc nấu chín, luộc chấm muối vừng hay trộn với cháo gạo (h). Người ta cũng có thể sắc uống chữa trực trùng, giun kim, làm thuốc lợi tiểu, giã nát đắp mụn nhọt (b), trị ung lở, sưng độc (g). Rau sam có tác dụng thanh nhiệt, tán huyết, sát trùng, hoạt trường, chữa huyết nhiệt, đái, ho, kiết lỵ ra máu, táo bón (b), đau vú, chốc đầu (d).
Cây sưng
Cây sưng (hay sâng, sang, sang láng), nôm na gọi hột sẻn, hay văn hoa hơn : hoa tiêu (trái cây), hoàng lực (rễ cây), sơn tiêu, xuyên tiêu, lưỡng diện trâm, lưỡng phử châm. Sưng mang tên khoa học Zanthoxylum nitidum Roxb., thuộc họ Cam quít Rutaceae, là một cây mọc hoang miền Bắc nước ta.
Ngoài kim loại như Mn, cây có nhiều alcaloid : nitidin, oxy-, dihydro nitidin, nhất ở vỏ rễ, oxy- , ethoxy-, methoxy dihydro-, sesmethyl chelerythrin, skimmianin, isofararidin, allocryptopin. Vỏ cây còn cống hiến những alcaloid khác ngoài một số đã kể : arnottianamid, isoarnottinamid, decarin, integriamid, ocyterihanin, magnoflorin ; những lignan : asarinin, sesanin, syringaresinol, ; một coumarin : esculetin dimethylether ; một sterol : sitosterol. Trong thân cây có hai phenyl propanoid : methyl nitinoat, dihydro cuspidil và một ligan : nitadanin.
Những alcaloid như ethoxy chelerythrin có khả năng ức chế sự phát triển tế bào khối u cổ trướng (26). Nếu cả ba nitidin, chelerthrin, isofararidin ngăn cản topoisomerase phóng thích DNA, chỉ nitidin ức chế mảnh liệt sự liên hiệp giữa enzym ấy với DNA. Dưới dạng thể chlorid, nitidin rất hiệu nghiệm khi dùng để chữa bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính ; cũng như methoxy dihydro chelerthrin, nó có khả năng gia tăng đời sống của chuột bị khối u cổ trướng (25). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc đã dùng cây sưng trộn với nhiều cây khác làm thuốc kiêng khem chữa nghiện ngập (27). Ở nước ta, cây sung được dùng để chữa bụng lạnh đau, thổ tả, giun sán, nhức răng (b), nhức xương, phong thấp, cảm mạo, giải độc (g), ho hen, nôn mửa, ỉa chảy, tê bại (d). Đặc biệt, rễ cây sắc uống hay ngâm rượu là một môn thuốc chữa tê thấp, sốt rét kinh niên (b) ; trái cây cũng sắc hay ngâm rượu chữa đau răng, giã nát bôi chỗ rắn cắn (d).
Tên khoa học của rau ngót là Sauropus androgynus (L.) Merr., thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae. Có sách cho tên Phyllanthus elegans Wall., thuộc cùng họ. Còn được gọi chùm ngọt, bò ngót hay bù ngót, nó thường mọc hoang, có nơi được trồng để hái lá tươi nấu canh.
Lá cây chứa một số khoáng chất kim loại : P, Ca, Mn, Na, Fe, Cu(4), carbohydrat, protein, thiamin, riboflavin, lipid, glycolipid mà nhiều nhất là linolenic acid. Trong lá tươi, nhiều sterol đã được xác định như cholesterol, campesterol, sitostetrol, isofucosterol. Với lá phơi khô, nghiền bột thì qua sắc ký trên giấy, một số amin acid đã được phát giác : arginin, aspartic acid, cystein, glutamic acid, glycin, histidin-glycin-HCl, isoleucin-leucin, methionin, phenyl alanin, serin, threonin, tyrosin, valin (20) . Người ta cũng đã tìm ra được trong lá rau ngót caroten, ascorbic acid (21), tocopherol (19), nghĩa là có đủ các vitamin A, C, E. Các nhà khảo cứu Ấn Độ nhận ra trong lá cây chekkurmenis (là rau ngót bên nước họ) những chất dinh dưỡng tăng với tuổi cây và có nhiều ở các lá phía bên hơn là các lá mọc cuối cành (21).
Tác dụng dược lý của rau ngót chưa được khảo cứu nhiều. Ở nước ta, ngoài canh rau, lá ngót thường được dùng để chữa sót nhau, hóc xương, tưa lưỡi (b), chữa ban sởi, viêm phổi, bí tiểu tiện ; rễ dùng để lợi tiểu, thông huyết (d). Thường lá hay rễ tươi, giã nát, ép vắt lấy nước ngâm, uống. Còn không thì canh rau ngót cũng có tính bổ dưỡng, mát, lành nên dùng cho người bệnh mới khỏi, đàn bà mới sanh (h).
Rau sam
Còn gọi mã xĩ hiện (machixian của Trung Quốc), tức là có hình răng ngựa, rau sam mang tên khoa học Portulaca oleraceae Linn., thuộc họ Rau sam Portulacaceae. Sách Âu Mỹ mô tả nó qua tên purslane, poupier. Cây được trồng làm rau ở Âu châu, mọc hoang ở nước ta, quanh nơi ẩm uớt.
Chứa các vitamin A, C, những chất phản oxi hóa, rau sam được xem như một nguồn acid béo omega-3, tức là những chất làm giảm hạ cholesterol cũng như để chữa xơ cứng động mạch. Cho gà ăn rau sam thì trứng đẻ ra cũng chứa nhiều loại acid ấy. Một số phenol như scoletin, bergapten, isopimpinellin, lonchocarpic acid, lonchocarpenin, robustin, genistein, genistin đã được chiết xuất và đem thử về mặt sát trùng, chống viêm. Nhờ có những tính chất ấy mà người ta dùng rau sam cũng như hành, tiêu, tỏi,… để bảo quản đồ ăn ướp muối, chống nấm trên các loại cải, bảo vệ da người, chữa chứng hôi miệng, phòng ngừa bệnh nấm và ỉa chảy ở gia súc, gia cầm.
Ngoài ra, phần chiết từ rau sam có khả năng kích thích sự phát triển insulin ở tuyến tụy, cải tạo glycogen. Đem thử trên thú vật, nhờ những chất alcaloid, coumarin, flavon, cardiac và anthroquinon glycosid, dù không có ảnh hưởng lớn lên mức đường ở máu, phần chiết nầy đã kéo dài được đời sống của chuột và thỏ bị bệnh đái đường, vì đã điều hòa được sự hỗn độn trong cuộc chuyển hóa lipid (22). Từ rau sam, người ta đã chế ra được một loại thuốc uống ức chế kết tụ tiểu cầu, giảm lipid máu (23), hạ huyết đường, tăng insulin ở chuột (24). Đặc biệt, phần thấm tách lại có khả năng gây kích thích thần kinh cơ hoành, co thắt trực tràng ở chuột, dãn duỗi bắp thịt ở gà. Bên ta, rau sam có thể ăn sống hoặc nấu chín, luộc chấm muối vừng hay trộn với cháo gạo (h). Người ta cũng có thể sắc uống chữa trực trùng, giun kim, làm thuốc lợi tiểu, giã nát đắp mụn nhọt (b), trị ung lở, sưng độc (g). Rau sam có tác dụng thanh nhiệt, tán huyết, sát trùng, hoạt trường, chữa huyết nhiệt, đái, ho, kiết lỵ ra máu, táo bón (b), đau vú, chốc đầu (d).
Cây sưng
Cây sưng (hay sâng, sang, sang láng), nôm na gọi hột sẻn, hay văn hoa hơn : hoa tiêu (trái cây), hoàng lực (rễ cây), sơn tiêu, xuyên tiêu, lưỡng diện trâm, lưỡng phử châm. Sưng mang tên khoa học Zanthoxylum nitidum Roxb., thuộc họ Cam quít Rutaceae, là một cây mọc hoang miền Bắc nước ta.
Ngoài kim loại như Mn, cây có nhiều alcaloid : nitidin, oxy-, dihydro nitidin, nhất ở vỏ rễ, oxy- , ethoxy-, methoxy dihydro-, sesmethyl chelerythrin, skimmianin, isofararidin, allocryptopin. Vỏ cây còn cống hiến những alcaloid khác ngoài một số đã kể : arnottianamid, isoarnottinamid, decarin, integriamid, ocyterihanin, magnoflorin ; những lignan : asarinin, sesanin, syringaresinol, ; một coumarin : esculetin dimethylether ; một sterol : sitosterol. Trong thân cây có hai phenyl propanoid : methyl nitinoat, dihydro cuspidil và một ligan : nitadanin.
Những alcaloid như ethoxy chelerythrin có khả năng ức chế sự phát triển tế bào khối u cổ trướng (26). Nếu cả ba nitidin, chelerthrin, isofararidin ngăn cản topoisomerase phóng thích DNA, chỉ nitidin ức chế mảnh liệt sự liên hiệp giữa enzym ấy với DNA. Dưới dạng thể chlorid, nitidin rất hiệu nghiệm khi dùng để chữa bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính ; cũng như methoxy dihydro chelerthrin, nó có khả năng gia tăng đời sống của chuột bị khối u cổ trướng (25). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc đã dùng cây sưng trộn với nhiều cây khác làm thuốc kiêng khem chữa nghiện ngập (27). Ở nước ta, cây sung được dùng để chữa bụng lạnh đau, thổ tả, giun sán, nhức răng (b), nhức xương, phong thấp, cảm mạo, giải độc (g), ho hen, nôn mửa, ỉa chảy, tê bại (d). Đặc biệt, rễ cây sắc uống hay ngâm rượu là một môn thuốc chữa tê thấp, sốt rét kinh niên (b) ; trái cây cũng sắc hay ngâm rượu chữa đau răng, giã nát bôi chỗ rắn cắn (d).
Vông nem
Còn gọi cây vông hay hải đồng, thích đồng, vông nem thường được báo cáo qua hai tên khoa học Erythrina indica Lam., thuộc họ Cánh bướm Papilionaceae, hay Erythrina variegata L. var. orientalis (L.) Merr. thuộc họ Đậu Fabaceae. Có những tác giả cho hai tên nầy chỉ định một cây. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi tắt Erythrina orientalis (L.) Merr. và liệt cây vào họ Đậu Papilionaceae nhưng cũng có chua thêm tên Erythrina indica Lamk.
Vông nem chứa anthoxanthin, isococcolin ở hoa, những alcaloid như erythrin, erysodin, N-methyl orientalin ở lá, erythratidin, epierythratidin, hydro epierythratidin ở vỏ, warangalon, erycristagallin, erythrabyssin, phaseollin, phaseolidin, isobavachin ở rễ, erythralin, erysovin cùng nhiều acid béo : oleic, linoleic, behenic, palmitic, eicosenoic, arachidic, lignoceric, stearic, docosenoic, hacadecanoic acid ở hột. Phân tích kỹ, bên cạnh quercetin, cellulose, lipid, sterol, có nhiều nhất là linoleic acid trong số các acid béo. Vỏ cây cống hiến những sterol : sitosrerol, campesterol, stigmasterol và citrostadienol, methylen lophenol cùng erysovin, stachydrin. Rhizobium chiết xuất từ rễ vông nem đã được dùng để sản xuất indoleacetic acid từ tryptophan.
Ở Á châu, từ Ấn Độ qua Trung Quốc, vỏ cây vông nem thường được đem làm thuốc se da, tra mắt, chống sốt, sát trùng, chữa bệnh đau gan, làm dịu bực nhọc, thần kinh căng thẳng. Lá cây được dùng làm thuốc lợi tiểu, làm tăng hoạt động dạ dày, giảm nhẹ đau nhức khớp xương (30). Dầu chiết từ cây có khả năng khử nấm, diệt trùng, mạnh hơn cả thuốc penicillin, streptomicin, đặc biệt chống Echerichia coli (28). Nhờ những alcaloid, phần chiết ức chế adenositriphosphatase trong màng não chuột (29). Từ hột, chymotrypsin, chất có khả năng ức chế trypsin, cũng được chiết xuất. Ở bên ta, lá vông nem được dùng làm thuốc an thần, gây ngủ, giã nhỏ để chữa vết loét, hơ nóng đáp vào hậu môn chữa trĩ (b). Lá khô sắc hoặc nấu cao uống chữa mất ngủ do hồi hộp, lo âu (d). Vỏ cây có tác dụng chữa sốt, sát trùng, thông kinh lạc, dùng chữa lưng gối đau nhức, tê liệt, lở ngứa, thái nhỏ cho vào nước thành bột nhão đắp lên chỗ rắn cắn hay tán nhỏ rắc vào nơi răng sâu (b), sắc, cao thành rượu chữa phong thấp (d). Bài thuốc Hải đồng bì tán dùng vỏ cây chữa chân tay co quắp (a).
* * *
Nói chung, tất cả các loại rau dùng trong món canh rau thập toàn đã là những môn thuốc riêng biệt. Chưa thấy có một cuộc khảo cứu nào thực hiện lên toàn bộ hỗn hợp nên chưa biết được tính chất dược liệu của toàn món canh, nhất là hiệu ứng đồng vận giữa các thuốc. Dù sao, Đông y đã có một khái niệm khá rõ ràng về phẩm lượng của nó, ta có thể yên tâm thưởng thức món canh ngon mát và bổ ích nầy.
Thông tin Khoa học và Công nghệ (2) (1998) 58-72, có bổ túc
Tham khảo
(a) Thực hành dược khoa, nxb Y học, Hà Nội (1972) tập II, dâu tằm 919, cây lá lốt 946, cây rau ngót 970, cây rau má 1114, 1160, vông nem 1214. Những hình trong bài trích từ cuốn sách nầy.
(b) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986), cây rau ngót 65, rau sam 202, hạt sẻn 381, khoai lang 459, rau mồng tơi 480, lá lốt 521, cây rau má 637, cây dâu 722, cải cúc 758, cây vông nem 782
(c) Võ Văn Chi, Những cây thuốc thông thường, nxb Đồng Tháp, Sa Đéc (1987), khoai lang 155, lá lốt 159, vông nem 195, dâu tằm 106, lá lốt 117, rau sam 333, rau ngót 359, cây sâng 417
d) Viện Dược liệu, Cây thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1990), rau má 109, vông nem 195, dâu tằm 275, lá lốt 313, rau ngót 359, cây sâng 417
đ) Agence de Coopération Technique, Les plantes médicinales au Vietnam, Paris (1990) livre 1, rau má 16, vông nem 71, dâu tằm 106, lá lốt 117, rau sam 129
(e) Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Mekong Printing, Santa Ana (1991-3), lốt I 374, sâng II 387, vông nem I 1184, dâu tằm II 1021
(g) Lê Quý Ngưu, Trần Như Đức, Thuốc trị bệnh từ cây cỏ hoang dại, nxb Thuận Hóa, Huế (1995), rau má 236, rau sam 316, cây sưng 330, vông nem 392
(h) Bùi Kim Tùng, Món ăn bài thuốc, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (1995-6) quyển 1, rau ngót 95, cúc tần ô 96, rau sam 96 ; quyển 3, mồng tơi 165, rau má 221
(i) Hoàng Thị Kim Cúc, Nghệ thuật nấu món ăn Huế, nxb Đà Nẵng (1996), 35
Khảo cứu
Chrysanthemum coronarium (Cải cúc)
1- K.K. Nishiyori, Y. Mori, Detergent compositions, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 60 28,498 (1985) 4 tr.
2- Y. Fuji, Manufacture of anthocyanin pigments by tissue culture of Chrysanthemum coronarium, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 02 222,691 (1990) 3 tr.
3- J. Li, Y. Liu, Terpenoid-containing mosquito-repellent cream, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,059,657 (1995) 5 tr.
Morus alba (Dâu tằm)
4- Zenyaku Kogyo Co., Ltd, Kuwanone I, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 58 43,999 (1983) 5 tr. ; JP 58 150,538 (1985) 5tr.
5- S. Wan, Superoxide dismutase capsules containing vitamin E and medicinal plant extracts, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,110,178 (1995) 5 tr.
6- A. Tsunemitsu, H. Suido, Antimicrobial compositions containing arginine, lysine, histidine, bactericides and surfactants, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08 151,324 (1996) 6 tr. ; JP 08 151,325 (1996) 5 tr. ; JP 08 151,326 (1996) 6 tr.
Ipomoea batatas (Khoai lang)
7- B.Q. Guevara et all., Comparative biological and chemical investigation of locally grown varieties of Ipomoea Linn. (Convulaceae), NRCP Res. Bull. (2) 38 (1983) 227-305
8- Y. Hashimoto, K. Kawanishi, Health food containing sweet potato extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 63 283,552 (1988) 3 tr.
9- J.L. Collins, C.B. Ebath, J.M. Mount, F.A. Draughon, B.J. Demott, Proximate, nutritional and microbiological analysis of milk-sweet potato mixtures fermented with jogurt bacteria – Production and evaluation of milk-sweet potato mixtures fermented with yogurt bacteria, J. Food Sci. (3) 56 (1991) 682-4 ; 685-8
Piper longum, P. sarmentosum (Lá lốt)
10- P.C. Das, Oral contraceptive (long-acting), Brit. 1,445,599 (1976) 11tr.
11- C.K. Atal, U. Zutshi, P.C. Rao, Scientific evidence on the role of Ayurvedic herbals on bioavailability of drugs, Ethnopharmacol. (2) 4 (1981) 229-32
12- M. Majeed, V. Badmaev, R. Rajendran, Use of piperine as bioacailability enhancer, PCT. Int. Appl. WO 96 25,939 (1996) 42 tr.
Basella rubra (Mồng tơi)
13- T. Nishimoto, R. Hiroze, Red-coloring method using Basella rubra fruit juice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 03 146,775 (1991) 5tr.
14- Y. Cao, L. Hu, Z. Tang, Q. Ye, Stability of naturel Basella red pigment, Tianran Chanwu Yanjiu Yu Kaifa (1) 1 (1989) 61-6
15- B. Belcour, R. Martin, G. Hussler, Cosmetic compositions containing at least one derivative of 5-methoxy-8-methyl-2-phenyl 7H-1-benzopyran-7-one as a coloring material, PCT Int. Appl. WO 94 29,388 (1994) 28 tr.
Centella asiatica, Hydrocotyle asiatica (Rau má)
16- J.N. Thorel, Composition for skin regeneration and stimulation, Fr Demande FR 2,594,690 (1987) 10 tr.
17- J.N. Thorel, Skin-rejuvenating cosmetic composition for application around the eyes, Fr Demande FR 2,668,061 (1992) 11 tr.
18- E. Bombardelli, G. Patri, R. Pozzi, Complexes of saponins and their aglycons with phospholipids and pharmaceutical and cosmetic compositions containing them, U.S. US 5,166,139 (1992) 3 tr.
Sauropus androgynus (Rau ngót)
19- C. Engel, A.M. de Vries, The tocopherol (vitamin E) contents of different foods from the Dutch East Indies, Z. Vitaminforsch 18 (1946) 89-90
20- N.N. Satyanarayana, G.R. Rao, Nutritive value of the leaves of Sauropus androgynus, Food Sci (2) 6 (1957) 29
21- J. Giri, V. Bhuvaneswari, D. Rajeswari, Changes in the nutritive value of chekkurmenis at different stages of growth, Indian J. Nutr. Diet (11) 21 (1984) 419-23.
Portulaca oleracea (Rau sam)
22- Zh. Stefanov, I. Ilarionov , D. Kolev, Preliminary photochemical and pharmacological studies of the relative wild prostrate form of Portulaca oleracea species, Farmatsiya (3) 16 (1966) 27-32
23- J. Zhou, G. Tian, J. Fu, W. Giao, Y. Zhu, Preparation of machixian oral liquid, Zhongcaoyao (5) 26 (1995) 239-41
24- E.F. Eskander, J.H. Won, Hypoglycemic and hyperindulinemic effects of some Egyptian herbs used for the treatment of diabetes mellitus (type II) in rats, Egypt. J. Pharm. Sci. (1-6) 36 (1995) 331-41
Zanthoxylum nitidum (Cây sưng)
25- Z.H. Huang, Z .H . Li, Studies on the antitumor constituents of Zanthoxylum nitidum (Roxb.) DC, Hua Hsuen Pao (6) 38 (1980) 535-42
26- M.H. Wang, Isolation of antitumor alkaloids from Zanthoxylum nitidum and structural study of its alkaloid C, Yao Hsueh T’ung Bao (2) 16 (1981) 48
27- X. Pan, G. Zhang, C. Liu et all., Pharmaceutical compositions for treating withdraw from drug additions, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,053,187 (1992) 13 tr.
Erythrina indica, E. variegata (Vông nem)
28- R. Bhale, P.K. Jain, M.M. Bokadia, The in vitro antimicrobial activity of the fixed oil of Erythrina indica, Indian Drugs Pharm. Ind. (3) 14 (1979) 39-40
29- Nguyen Xuan Thang, Nguyen Thi Hang, Dang Hanh Phuc, Inhibitory effect of some traditional hypnotic drugs on adenosinetriphosphatase of rat brain membranes, Rev. Pharm.(1983) 82-9
30- H. Telikepalli, D.R. Gollapudi, A. Keshavarz-Shokri, L. Velasquez, R.A. Sandmann, E.A. Veliz, K.V.J. Rao, A.S. Madhavi, L.A. Mitscher, Isoflavonoids and a cinnamyl phenol from root extracts of Erythrina variegata, Phytochem. (6) 29 (1990) 2005-7
Còn gọi cây vông hay hải đồng, thích đồng, vông nem thường được báo cáo qua hai tên khoa học Erythrina indica Lam., thuộc họ Cánh bướm Papilionaceae, hay Erythrina variegata L. var. orientalis (L.) Merr. thuộc họ Đậu Fabaceae. Có những tác giả cho hai tên nầy chỉ định một cây. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi tắt Erythrina orientalis (L.) Merr. và liệt cây vào họ Đậu Papilionaceae nhưng cũng có chua thêm tên Erythrina indica Lamk.
Vông nem chứa anthoxanthin, isococcolin ở hoa, những alcaloid như erythrin, erysodin, N-methyl orientalin ở lá, erythratidin, epierythratidin, hydro epierythratidin ở vỏ, warangalon, erycristagallin, erythrabyssin, phaseollin, phaseolidin, isobavachin ở rễ, erythralin, erysovin cùng nhiều acid béo : oleic, linoleic, behenic, palmitic, eicosenoic, arachidic, lignoceric, stearic, docosenoic, hacadecanoic acid ở hột. Phân tích kỹ, bên cạnh quercetin, cellulose, lipid, sterol, có nhiều nhất là linoleic acid trong số các acid béo. Vỏ cây cống hiến những sterol : sitosrerol, campesterol, stigmasterol và citrostadienol, methylen lophenol cùng erysovin, stachydrin. Rhizobium chiết xuất từ rễ vông nem đã được dùng để sản xuất indoleacetic acid từ tryptophan.
Ở Á châu, từ Ấn Độ qua Trung Quốc, vỏ cây vông nem thường được đem làm thuốc se da, tra mắt, chống sốt, sát trùng, chữa bệnh đau gan, làm dịu bực nhọc, thần kinh căng thẳng. Lá cây được dùng làm thuốc lợi tiểu, làm tăng hoạt động dạ dày, giảm nhẹ đau nhức khớp xương (30). Dầu chiết từ cây có khả năng khử nấm, diệt trùng, mạnh hơn cả thuốc penicillin, streptomicin, đặc biệt chống Echerichia coli (28). Nhờ những alcaloid, phần chiết ức chế adenositriphosphatase trong màng não chuột (29). Từ hột, chymotrypsin, chất có khả năng ức chế trypsin, cũng được chiết xuất. Ở bên ta, lá vông nem được dùng làm thuốc an thần, gây ngủ, giã nhỏ để chữa vết loét, hơ nóng đáp vào hậu môn chữa trĩ (b). Lá khô sắc hoặc nấu cao uống chữa mất ngủ do hồi hộp, lo âu (d). Vỏ cây có tác dụng chữa sốt, sát trùng, thông kinh lạc, dùng chữa lưng gối đau nhức, tê liệt, lở ngứa, thái nhỏ cho vào nước thành bột nhão đắp lên chỗ rắn cắn hay tán nhỏ rắc vào nơi răng sâu (b), sắc, cao thành rượu chữa phong thấp (d). Bài thuốc Hải đồng bì tán dùng vỏ cây chữa chân tay co quắp (a).
* * *
Nói chung, tất cả các loại rau dùng trong món canh rau thập toàn đã là những môn thuốc riêng biệt. Chưa thấy có một cuộc khảo cứu nào thực hiện lên toàn bộ hỗn hợp nên chưa biết được tính chất dược liệu của toàn món canh, nhất là hiệu ứng đồng vận giữa các thuốc. Dù sao, Đông y đã có một khái niệm khá rõ ràng về phẩm lượng của nó, ta có thể yên tâm thưởng thức món canh ngon mát và bổ ích nầy.
Thông tin Khoa học và Công nghệ (2) (1998) 58-72, có bổ túc
Tham khảo
(a) Thực hành dược khoa, nxb Y học, Hà Nội (1972) tập II, dâu tằm 919, cây lá lốt 946, cây rau ngót 970, cây rau má 1114, 1160, vông nem 1214. Những hình trong bài trích từ cuốn sách nầy.
(b) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986), cây rau ngót 65, rau sam 202, hạt sẻn 381, khoai lang 459, rau mồng tơi 480, lá lốt 521, cây rau má 637, cây dâu 722, cải cúc 758, cây vông nem 782
(c) Võ Văn Chi, Những cây thuốc thông thường, nxb Đồng Tháp, Sa Đéc (1987), khoai lang 155, lá lốt 159, vông nem 195, dâu tằm 106, lá lốt 117, rau sam 333, rau ngót 359, cây sâng 417
d) Viện Dược liệu, Cây thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1990), rau má 109, vông nem 195, dâu tằm 275, lá lốt 313, rau ngót 359, cây sâng 417
đ) Agence de Coopération Technique, Les plantes médicinales au Vietnam, Paris (1990) livre 1, rau má 16, vông nem 71, dâu tằm 106, lá lốt 117, rau sam 129
(e) Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Mekong Printing, Santa Ana (1991-3), lốt I 374, sâng II 387, vông nem I 1184, dâu tằm II 1021
(g) Lê Quý Ngưu, Trần Như Đức, Thuốc trị bệnh từ cây cỏ hoang dại, nxb Thuận Hóa, Huế (1995), rau má 236, rau sam 316, cây sưng 330, vông nem 392
(h) Bùi Kim Tùng, Món ăn bài thuốc, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (1995-6) quyển 1, rau ngót 95, cúc tần ô 96, rau sam 96 ; quyển 3, mồng tơi 165, rau má 221
(i) Hoàng Thị Kim Cúc, Nghệ thuật nấu món ăn Huế, nxb Đà Nẵng (1996), 35
Khảo cứu
Chrysanthemum coronarium (Cải cúc)
1- K.K. Nishiyori, Y. Mori, Detergent compositions, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 60 28,498 (1985) 4 tr.
2- Y. Fuji, Manufacture of anthocyanin pigments by tissue culture of Chrysanthemum coronarium, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 02 222,691 (1990) 3 tr.
3- J. Li, Y. Liu, Terpenoid-containing mosquito-repellent cream, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,059,657 (1995) 5 tr.
Morus alba (Dâu tằm)
4- Zenyaku Kogyo Co., Ltd, Kuwanone I, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 58 43,999 (1983) 5 tr. ; JP 58 150,538 (1985) 5tr.
5- S. Wan, Superoxide dismutase capsules containing vitamin E and medicinal plant extracts, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,110,178 (1995) 5 tr.
6- A. Tsunemitsu, H. Suido, Antimicrobial compositions containing arginine, lysine, histidine, bactericides and surfactants, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08 151,324 (1996) 6 tr. ; JP 08 151,325 (1996) 5 tr. ; JP 08 151,326 (1996) 6 tr.
Ipomoea batatas (Khoai lang)
7- B.Q. Guevara et all., Comparative biological and chemical investigation of locally grown varieties of Ipomoea Linn. (Convulaceae), NRCP Res. Bull. (2) 38 (1983) 227-305
8- Y. Hashimoto, K. Kawanishi, Health food containing sweet potato extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 63 283,552 (1988) 3 tr.
9- J.L. Collins, C.B. Ebath, J.M. Mount, F.A. Draughon, B.J. Demott, Proximate, nutritional and microbiological analysis of milk-sweet potato mixtures fermented with jogurt bacteria – Production and evaluation of milk-sweet potato mixtures fermented with yogurt bacteria, J. Food Sci. (3) 56 (1991) 682-4 ; 685-8
Piper longum, P. sarmentosum (Lá lốt)
10- P.C. Das, Oral contraceptive (long-acting), Brit. 1,445,599 (1976) 11tr.
11- C.K. Atal, U. Zutshi, P.C. Rao, Scientific evidence on the role of Ayurvedic herbals on bioavailability of drugs, Ethnopharmacol. (2) 4 (1981) 229-32
12- M. Majeed, V. Badmaev, R. Rajendran, Use of piperine as bioacailability enhancer, PCT. Int. Appl. WO 96 25,939 (1996) 42 tr.
Basella rubra (Mồng tơi)
13- T. Nishimoto, R. Hiroze, Red-coloring method using Basella rubra fruit juice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 03 146,775 (1991) 5tr.
14- Y. Cao, L. Hu, Z. Tang, Q. Ye, Stability of naturel Basella red pigment, Tianran Chanwu Yanjiu Yu Kaifa (1) 1 (1989) 61-6
15- B. Belcour, R. Martin, G. Hussler, Cosmetic compositions containing at least one derivative of 5-methoxy-8-methyl-2-phenyl 7H-1-benzopyran-7-one as a coloring material, PCT Int. Appl. WO 94 29,388 (1994) 28 tr.
Centella asiatica, Hydrocotyle asiatica (Rau má)
16- J.N. Thorel, Composition for skin regeneration and stimulation, Fr Demande FR 2,594,690 (1987) 10 tr.
17- J.N. Thorel, Skin-rejuvenating cosmetic composition for application around the eyes, Fr Demande FR 2,668,061 (1992) 11 tr.
18- E. Bombardelli, G. Patri, R. Pozzi, Complexes of saponins and their aglycons with phospholipids and pharmaceutical and cosmetic compositions containing them, U.S. US 5,166,139 (1992) 3 tr.
Sauropus androgynus (Rau ngót)
19- C. Engel, A.M. de Vries, The tocopherol (vitamin E) contents of different foods from the Dutch East Indies, Z. Vitaminforsch 18 (1946) 89-90
20- N.N. Satyanarayana, G.R. Rao, Nutritive value of the leaves of Sauropus androgynus, Food Sci (2) 6 (1957) 29
21- J. Giri, V. Bhuvaneswari, D. Rajeswari, Changes in the nutritive value of chekkurmenis at different stages of growth, Indian J. Nutr. Diet (11) 21 (1984) 419-23.
Portulaca oleracea (Rau sam)
22- Zh. Stefanov, I. Ilarionov , D. Kolev, Preliminary photochemical and pharmacological studies of the relative wild prostrate form of Portulaca oleracea species, Farmatsiya (3) 16 (1966) 27-32
23- J. Zhou, G. Tian, J. Fu, W. Giao, Y. Zhu, Preparation of machixian oral liquid, Zhongcaoyao (5) 26 (1995) 239-41
24- E.F. Eskander, J.H. Won, Hypoglycemic and hyperindulinemic effects of some Egyptian herbs used for the treatment of diabetes mellitus (type II) in rats, Egypt. J. Pharm. Sci. (1-6) 36 (1995) 331-41
Zanthoxylum nitidum (Cây sưng)
25- Z.H. Huang, Z .H . Li, Studies on the antitumor constituents of Zanthoxylum nitidum (Roxb.) DC, Hua Hsuen Pao (6) 38 (1980) 535-42
26- M.H. Wang, Isolation of antitumor alkaloids from Zanthoxylum nitidum and structural study of its alkaloid C, Yao Hsueh T’ung Bao (2) 16 (1981) 48
27- X. Pan, G. Zhang, C. Liu et all., Pharmaceutical compositions for treating withdraw from drug additions, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,053,187 (1992) 13 tr.
Erythrina indica, E. variegata (Vông nem)
28- R. Bhale, P.K. Jain, M.M. Bokadia, The in vitro antimicrobial activity of the fixed oil of Erythrina indica, Indian Drugs Pharm. Ind. (3) 14 (1979) 39-40
29- Nguyen Xuan Thang, Nguyen Thi Hang, Dang Hanh Phuc, Inhibitory effect of some traditional hypnotic drugs on adenosinetriphosphatase of rat brain membranes, Rev. Pharm.(1983) 82-9
30- H. Telikepalli, D.R. Gollapudi, A. Keshavarz-Shokri, L. Velasquez, R.A. Sandmann, E.A. Veliz, K.V.J. Rao, A.S. Madhavi, L.A. Mitscher, Isoflavonoids and a cinnamyl phenol from root extracts of Erythrina variegata, Phytochem. (6) 29 (1990) 2005-7
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét